Ở đền Đông Cuông, hình tượng Mẫu Thượng ngàn cai quản 81 cửa rừng có sự pha trộn, chồng lớp bởi rất nhiều truyền thuyết ở các thời đại khác nhau. Theo truyền tụng, đây vốn là một ngôi miếu nhỏ thờ thần núi, thần rừng. Ngôi miếu này trở thành đình vào thời Lê và đến triều Nguyễn thì đổi thành đền. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục”, ngôi miếu này thờ Đông Quang công chúa nổi tiếng anh linh, giúp dân lập bản lập mường, dạy dân bách nghệ, chữa bệnh, cứu đói. Vào đời vua Lê Thái Tổ đã phong bà là Lê Mại Đại Vương, sau khi bà phù hộ cho vua Lê đánh tan giặc. Đền Đông Cuông còn có tên là đền Thần Vệ quốc theo sắc phong của triều đình Nguyễn.
Ở đền Đông Cuông, Mẫu Thượng ngàn là bậc anh linh, quyền cao tối thượng nhưng gần gũi, bình dị trong đời sống tâm linh của người dân. Ngoài thờ Mẫu Đệ nhị Thượng ngàn, đền Đông Cuông còn thờ thần Vệ quốc – các vị thần người bản địa có công trong kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên như: Hà Đặc, Hà Chương, Hà Bổng…là những người từng lãnh đạo nhân dân nơi đây chống giặc Mông – Nguyên, bị tử trận.
Đền Đông Cuông là cụm Di tích gồm 4 điểm: Ngoài Đền chính còn có Miếu Cô, Miếu Cậu và Miếu Đức Ông (Miếu Đức Ông tọa bên hữu ngạn sông Hồng đối diện với ngôi Đền Chính về hướng Nam cách 150m đường chim bay thuộc cụm di tích Đền Đông Cuông). Đền có từ lâu đời, qua sử sách thư tịch được biết Đền có muộn nhất vào đời Lê, được phát triển từ một Miếu cổ (thuộc trung tâm trại Quy Hóa thời Trần); Các thư tịch cổ như Kiến văn tiểu lục, Đại Nam thống nhất chí đều có ghi chép về ngôi Đền Đông Cuông này. Đền và khu vực đền có liên quan đến Đền Ngọc Tháp và Đền Hùng (Phú Thọ). Đền Đông Cuông được xây dựng trên một thế đất rộng. Tọa sát bên đôi bờ sông hồng, xung quanh là đồng ruộng và núi rừng bao bọc, không giống những ngôi đền khác trường tồn giữa chốn phồn hoa, cửa nhà san sát mà Đền Đông Cuông “Đông Quang” đã được người xưa chọn phương cắm hướng ngay cấp sa bồi của thế đất vùng “Thượng lưu châu thổ sông Hồng”. Thế đất binh sự - phên dậu nhưng không xa lìa thế nhân, chốn này tĩnh tại nhưng không hề âm u hiu quạnh. Vì vậy ngôi đền ấy mãi mãi sáng trong như đúng tên gọi “Đông Quang” cổ nhân đã đặt. Vậy nên từ xa đã khiến du khách nhận ngay được bóng dáng cây Đa khoảng 800 tuổi cạnh ngôi đền tuy cổ mà không cũ, tuy hiện đại mà mang tính dân tộc cao. Về kết cấu kiến trúc: Theo dân tộc Tày Khao gọi là đình Đông Cuông với chức năng thờ Mẫu và vị Đại Vương, người Tày cho là Thành hoàng làng là chính, không kiêm nhiệm nhiều chức năng khác và không tập trung thể hiện mỹ thuật. Trang hoàng lộng lẫy, mà chỉ là những vân mây, sóng nước, điểm xuyến đôi hình hoa lá hoa dây. Đền Đuông Cuông có kết cấu hình chữ đinh gồm hai tòa đại bái và hậu cung cấm.