Đàn tế trời đất Ấn Sơn hay còn gọi là đài Kính Thiên là một di tích lịch sử nổi bật nằm trên đỉnh núi Ấn Sơn thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Công trình này không chỉ mang tính chất tôn giáo mà còn là biểu tượng của lòng tôn kính và sự tưởng nhớ đối với những chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn khi khởi binh chống lại thù trong giặc ngoài. Được xây dựng trên khu đất rộng 46 ha, đàn tế trời đất tọa lạc giữa núi non trùng điệp với phong thủy hữu tình. Đỉnh Ấn Sơn được cho là vùng đất có vị trí địa lý đặc biệt, được bao quanh bởi những ngọn núi có hình dáng như "hổ phục rồng bay", thể hiện sự uy nghi và linh thiêng.
Theo nhiều ghi chép lịch sử, nơi đây từng là nơi các vị anh hùng Tây Sơn Tam Kiệt – Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ – lập đàn tế trời đất, nhận ấn kiếm từ trời cao, thể hiện nguyện ước cầu mong cho đại nghiệp thống nhất non sông thành công. Lịch sử của đài Kính Thiên còn gắn liền với câu chuyện về việc nhà Tây Sơn tìm thấy long mạch tại Ấn Sơn. Điều này được cho là góp phần giúp ba anh em Nguyễn Nhạc văn võ song toàn, giành được sự ủng hộ của nhân dân, từ đó chiến thắng giặc ngoại xâm, tạo dựng nên đế chế Tây Sơn hùng mạnh. Kiến trúc Được xây dựng theo phong cách cổ, đàn tế mang trong mình ý nghĩa sâu sắc về mối liên hệ giữa Trời - Đất - Nhân, thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Kiến trúc độc đáo của đàn tế gồm ba tầng chính và hệ thống nghi môn tượng trưng cho sự tôn kính và nghiêm cẩn trong các nghi thức tế lễ.
Tầng trên cùng gọi là Viên Đàn, được xây dựng theo hình tròn nhằm tượng trưng cho Trời với đường kính 27m. Viên Đàn được xây bằng đá ong, bao quanh là lan can đá màu đỏ nổi bật. Trung tâm của Viên Đàn là hương án bằng đá, nơi thờ Trời và Đất. Lối lên Viên Đàn được bố trí từ hướng Nam với 5 bậc cấp, tạo nên không gian trang trọng, linh thiêng.
Tầng thứ hai là Phương Đàn có hình vuông với chiều dài mỗi cạnh 54m, tượng trưng cho Đất. Phương Đàn được bao quanh bởi lan can đá màu vàng và xây dựng bằng đá ong. Bốn lối lên của Phương Đàn hướng về bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây, mỗi lối đều có 9 bậc thang. Tầng này cũng là nơi bố trí các áng thờ thần linh, từ thần mặt trời, mặt trăng cho đến các vị thần biển, sông, núi. Đây là nơi chuẩn bị các nghi thức trang nghiêm trước khi tiến hành tế lễ.
Tầng dưới cùng có thiết kế hình vuông, được bao bọc bởi tường đá ong và có cổng tam quan ở hướng chính Nam. Cổng tam quan được thiết kế hai tầng mái, tạo ra sự hoành tráng và trang nghiêm. Ngoài ra, ba hướng còn lại được bố trí nghi môn kiểu tứ trụ thẳng hàng. Trước cổng tam quan là một hồ nước hình bán nguyệt, không chỉ tạo điểm nhấn phong thủy mà còn làm đẹp tổng thể kiến trúc đàn tế, ngăn cách không gian tâm linh với khu vực bên ngoài. Khu Đền ấn
Khu Đền Ấn là một phần không thể thiếu trong tổng thể kiến trúc của đàn tế trời đất Ấn Sơn. Nơi đây mang ý nghĩa lịch sử và văn hóa đặc biệt, gắn liền với di sản của Tây Sơn Tam Kiệt. kiến trúc khu Đền Ấn được xây dựng với ba hạng mục chính: Tiền tế, phương đình và hậu cung.
Tiền tế có mặt bằng kiến trúc theo hình chữ Nhất, gồm 5 gian với mái chái và đầu đao. Đây là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ và cúng bái chính thức. Bên trong Tiền tế được bố trí bàn thờ chung để tưởng nhớ các tướng lĩnh và quân sĩ đã đóng góp công sức cho triều đại Tây Sơn. Nét kiến trúc mang phong cách truyền thống này giúp tái hiện không gian trang nghiêm, linh thiêng, phù hợp với mục đích tế tự và cúng bái.
Tiếp theo tiền tế là phương đình, nơi tượng trưng cho sự giao hòa giữa trời và đất, giữa âm và dương. Đây là hạng mục kiến trúc đặc biệt, tượng trưng cho trung tâm của khu Đền Ấn, nơi kết nối năng lượng của vũ trụ với con người. Phương đình được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống, nơi đặt bản sao của Ấn lệnh nhà Tây Sơn, biểu tượng quyền lực và sự vĩ đại của triều đại này. Kiến trúc này cũng được xem là nơi “thông thiên”, nơi linh khí giao hòa, mang đến sự trang trọng và thiêng liêng. Hậu cung
Phía sau Phương đình là Hậu cung, kiến trúc có mặt bằng chữ Nhất, gồm 3 gian và mái chái. Đây là nơi trang trọng nhất khi thờ bài vị của ba anh em Tây Sơn Tam Kiệt: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.